Báo cáo Ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam 2018-2019 (Kỳ 1)

MarsLe ·

Kính thưa quý độc giả,

Trong năm 2019, tôi rất vinh dự khi được đài thọ bởi Busan Film Commission (BFC, Ủy Ban Phim Busan) để học tập và nghiên cứu trong sáu tháng tại Busan Asian Film School (AFiS, Trường Điện Ảnh Châu Á Busan), thành phố Busan, Đại Hàn Dân Quốc. Tôi đã cùng với 19 nhà sản xuất phim đến từ các quốc gia trong châu lục tham gia chương trình International Film Business Academy (Học Viện Kinh Doanh Phim Quốc Tế) tại trường. Đây là một khóa học nhằm thúc đẩy việc nghiên cứu lẫn nhau giữa các thị trường điện ảnh, thúc đẩy hợp tác sản xuất phim giữa các nước Châu Á, tạo ra một mạng lưới dành cho thế hệ các nhà sản xuất tiếp theo của Châu Á và quan trọng nhất là trang bị cho chúng tôi những hiểu biết về các mảng công tác trong hoạt động kinh doanh về điện ảnh trên thị trường quốc tế, bao gồm cả hợp tác sản xuất phim quốc tế và mua bán phim quốc tế. Trong rất nhiều nhiệm vụ mà chúng tôi phải thực hiện tại trường, một việc rất quan trọng được BFC yêu cầu đó là mỗi người phải viết một bản báo cáo về ngành công nghiệp điện ảnh nước mình. Đối với tôi, là một đạo diễn và sản xuất phim, việc phải hoàn thành một văn bản mang tính học thuật là rất lạ lẫm. Nhưng nhận ra đây là cơ hội để tôi hệ thống lại những điều mình suy nghĩ về ngành điện ảnh Việt Nam, với sự động viên của các giáo sư và trách nhiệm phải giúp các nhà sản xuất Châu Á hiểu được thị trường điện ảnh của chúng ta, tôi đã cố gắng hết sức để hoàn thành bản báo cáo bằng tiếng Anh vào tháng 9/2019.

Thú thực, ban đầu tôi không có ý định chuyển ngữ bản báo cáo này vì e rằng có thể khiến nhiều bên trong ngành hiểu sai về mình, cũng như ý định của mình. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành bản báo cáo tiếng Anh, tôi nhận ra rằng mình đã bỏ vào đó rất nhiều những suy nghĩ của bản thân, dựa trên những kinh nghiệm mà tôi đúc kết được trong hơn 10 năm quan sát và tham gia vào ngành điện ảnh mà tôi may mắn có được. Những điều đó có lẽ đã vượt qua cả giới hạn của một bản báo cáo chỉ để dành cho các chuyên gia quốc tế, tôi nghĩ rằng có lẽ bản báo cáo sẽ có ý nghĩa hơn nếu như được chính người Việt Nam đọc. Vì thế, cuối cùng tôi quyết định rằng mình phải góp một chút công sức khiêm tốn cho ngành công nghiệp mà mình đang làm việc bằng một bản báo cáo bằng tiếng Việt. Nhưng không chỉ đơn giản là chuyển ngữ, bản tiếng Việt phải được cập nhật thêm một số dữ kiện mới cũng như rất nhiều những luận điểm mới mà tôi thấy còn chưa được nói hết trong khuôn khổ bản báo cáo nộp cho nhà trường. Đó là lý do vì sao phiên bản này được tồn tại và tới tay quý độc giả.

Trong nội dung của bản báo cáo này, tôi tập trung vào những chuyển biến của ngành điện ảnh trong hai năm 2018-2019, nhưng cũng cố gắng đưa vào những thông tin của cả thập niên để giúp quý độc giả có một cái nhìn tổng quan về bức tranh chung của ngành. Chỉ bằng kinh nghiệm hạn hẹp của mình, tôi không dám khẳng định rằng đây là một văn bản mang tính khoa học hoàn hảo. Trong điều kiện mà rất nhiều dữ kiện của ngành điện ảnh không bao giờ được các bên liên quan công bố, chắc chắn sẽ có sai sót ở đâu đó trong báo cáo này, vì vậy xin được quý độc giả lượng thứ và chỉ ra giúp cho. Cũng chính vì tính chất nhạy cảm ấy mà tôi không thể dẫn nguồn chính thức tất cả các số liệu trong báo cáo, điều lẽ ra là bắt buộc. Ngoài ra, bản báo cáo cũng sẽ mang tính cá nhân của người viết rất cao, với những ý tưởng của bản thân tôi, mà chưa chắc đã hoàn toàn hợp lý. Nếu như quý độc giả không đồng tình, tôi rất mong nhận được các ý kiến phản biện. Tôi cũng chân thành xin độc giả lượng thứ nếu trong bản báo cáo có điều gì có thể làm quý độc giả cảm thấy cá nhân hay tổ chức của mình bị ảnh hưởng. Tôi mong quý độc giả tin rằng tôi đã viết bản báo cáo này với một tinh thần khách quan, trong sáng nhất, tôi chỉ muốn đưa ra những dữ kiến chính xác nhất và những suy nghĩ trung thực, mang tính xây dựng nhất. Trong báo cáo này, tôi không hề mong muốn xúc phạm hay hạ thấp bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào. Hơn hết, tôi chỉ có một lòng yêu nghề nghiệp của mình và muốn được đóng góp cho một tương lai tốt đẹp của nền điện ảnh Việt Nam, cho người làm phim Việt Nam.

Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến BFC và AFiS vì đã trao cho tôi cơ hội có được sáu tháng vô cùng tuyệt vời tại thành phố điện ảnh Busan, đây là những kỷ niệm sẽ đi theo tôi trong suốt cuộc đời. Tôi xin chân thành cảm ơn Giáo sư, Tiến sĩ Cho Hee-young, người đã theo sát tôi trong quá trình viết báo cáo, và Giáo sư Darcy Paquet, người đã dành thời gian để sửa chữa tất cả các lỗi văn phạm tiếng Anh mà tôi mắc phải. Tôi xin chân thành cám ơn Nhà sản xuất Vũ Quỳnh Hà, Đạo diễn Phan Gia Nhật Linh, Nhà báo Nguyễn Trọng Thiên Ân, những người đã giúp tôi có thêm rất nhiều thông tin đa dạng. Tôi xin cám ơn các website Boxofficevietnam.com và Moveek.com vì đã cung cấp cho tôi những dữ liệu vô giá, tôi mong các bạn sẽ tiếp tục đồng hành lâu dài với ngành điện ảnh Việt Nam. Tôi xin cám ơn Đạo diễn Andy Nguyen, người đã cho tôi động lực để bắt tay vào bản báo cáo tiếng Việt. Và riêng với phiên bản này, tôi xin được dành sự biết ơn sâu sắc tới các cộng tác viên vô cùng nhiệt tình và tốt bụng, những người đã giúp tôi chuyển ngữ cơ bản toàn bộ báo cáo tiếng Anh. Đó là anh Trần Hoàng Sơn, anh Đặng Ngọc Quang, chị Nguyễn Diệp Thùy Anh và chị Nguyễn Ngọc Kim. Tôi xin cám ơn tất cả từ tận đáy lòng.

Quý độc giả thân mến, nếu quý độc giả có nhã ý muốn trao đổi với tôi, xin vui lòng liên lạc thông qua hộp thư điện tử: huutuanfd@gmail.com. Tôi vô cùng hạnh phúc và luôn sẵn sàng để được chia sẻ với quý anh, chị. Nhưng trước hết, hi vọng rằng độc giả của tôi sẽ không thấy uổng phí thời gian quý giá để đọc bản báo cáo này.

Báo cáo được chia làm 4 phần:

  1. Mở đầu & Khán giả: Nền móng
  2. Các nhà sản xuất: Hệ cột chịu lực
  3. Nhà nước: Mái nhà
  4. Các nhà làm phim: Những bức tường & Kết luận

Trân trọng,

Nguyễn Hữu Tuấn.

 

MỞ ĐẦU

Đã có một thời kỳ dài trong quá khứ, thị trường phim và ngành điện ảnh Việt Nam được coi như đã chết lâm sàng. Nhưng ngành công nghiệp này đã dần hồi sinh nhờ chính sách xã hội hóa của Nhà nước vào đầu thập niên 2000, mà điểm nhấn của nó là bộ Luật Điện Ảnh được ban hành vào năm 2006. Bộ luật này đã trở thành hòn đá tảng cho kỷ nguyên mới của ngành công nghiệp điện ảnh và trình chiếu phim tại Việt Nam. Ngày nay, Việt Nam đã trở thành một trong những thị trường phim phát triển nhanh nhất ở châu Á. Với sự tham gia của các tập đoàn Hàn Quốc như CJ hay Lotte, nhiều ý kiến lạc quan tiên đoán rằng Việt Nam sẽ trở thành một “Hàn Quốc kế tiếp” trong ngành công nghiệp điện ảnh toàn cầu. Theo một báo cáo thị trường năm 2018, từ năm 2011 đến ngày 30 tháng 9 năm 2018, thị trường phim Việt Nam đã đóng góp được tới 738.098.742 USD cho thị trường toàn cầu và đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 24,9% mỗi năm. Đồng thời, theo thông kê gần nhất, số lượng rạp chiếu đã tăng từ 22 lên 198, và số lượng phòng chiếu là từ 124 lên 950. Đây thực sự là những con số gây ấn tượng mạnh cho các quan sát viên quốc tế. Bản thân thị trường Việt Nam tự thân cũng có nhiều lợi thế cho việc sản xuất và kinh doanh phim, nếu so với các nước trong khu vực. Nhờ phát triển muộn, hệ thống phát hành phim mà chúng ta đang có rất rõ ràng, chuyên nghiệp hóa và minh bạch hơn hẳn Thái Lan, nơi vẫn tồn tại một hệ thống vài chục năm tuổi, có sự chi phối của các công ty phân phối phim cấp vùng mang nhiều màu sắc mafia. Các nước như Malaysia, Indonesia hay Singapore lại quá đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ, làm cho thị trường điện ảnh bị chia nhỏ thành các mảng riêng biệt. Trong khi đó, Việt Nam có lợi thế của một quốc gia có mức độ đồng nhất về văn hóa cao tương tự Hàn Quốc hay Nhật Bản, nơi một bộ phim sản xuất ra có thể được đưa tới đông đảo khán giả trong nước mà không phải lo lắng về rào cản ngôn ngữ nào.

Nhưng những chỉ số thị trường hay lợi thế kể trên không thể truyền tải được hết bức tranh toàn cảnh của ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam. Trong khi chúng có thể gây ấn tượng với người ngoài, thì nhiều người trong cuộc vẫn quan ngại với tình hình hiện tại. Sau bảy năm không ngừng tăng trưởng, tổng doanh thu phòng vé toàn quốc năm 2018 bất ngờ sụt giảm 3,2%. Phim Việt Nam cũng không nằm ngoài khỏi thất bại này, ngay cả khi đóng góp 26%, thu về tổng cộng 35.301.893 USD trong số 138.363.326 USD. Kết quả này hoàn toàn không thể dự đoán được vào đầu năm 2018, bởi năm 2017 đã là một năm rất thành công của ngành làm phim với bộ phim Em Chưa 18, thu về hơn 140 tỷ. Vậy nhưng, điện ảnh Việt Nam đã phải nếm trải một loạt trái đắng trong năm 2018. Nhiều phim gục ngã, một số khác thì không đáp ứng được kỳ vọng dù chúng đã được xem như những bộ phim đinh. Nhưng bất ngờ chưa dừng lại ở đó. Khi vẫn còn đang băn khoăn về kết quả năm ngoái, ngành điện ảnh bỗng nhiên lại thấy một loạt các kỷ lục mới, chỉ trong nửa đầu năm 2019. Trong giai đoạn ngắn này, bốn bộ phim Việt Nam đã thu được hơn 100 tỷ doanh thu phòng chiếu, một thành tích mà chỉ có bốn bộ phim khác từ năm 2011 đến 2018 có thể đạt được. Cua Lại Vợ Bầu của đạo diễn Nhất Trung thậm chí chỉ thiếu khoảng 10 tỷ nữa là cán mốc doanh thu 200 tỷ. Những bộ phim này đã tạo nên một Câu Lạc Bộ Trăm Tỷ khá đông vui, mà bộ phim Mắt Biếc cũng đang đầy hi vọng trở thành thành viên mới nhất ngay trong những ngày cuối cùng của năm 2019.

Tất cả những dao động kịch tính này chứng tỏ rằng sau hơn một thập kỷ phục sinh từ đống tro tàn, cánh chim phượng hoàng của ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam vẫn chưa tìm được một quỹ đạo bay thực sự ổn định. Sự bất định đó làm cho bất kỳ dự đoán lạc quan nào về một sự phát triển bền vững cũng trở nên không chắc chắn theo, ít nhất là trong tương lai gần. Trong cộng đồng các nhà làm phim Việt Nam, rất nhiều người thực sự bi quan về những năm sắp tới, thậm chí là không giấu được nỗi thất vọng. Có quá nhiều vấn đề khác nhau, rất dễ ngợp nếu nhìn vào tất cả cùng một lúc, nhưng hầu hết các vấn đề sống còn của ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam đều không phải mới xuất hiện gần đây, chúng đã tồn tại từ nhiều năm rồi. Bản báo cáo này được viết để xem xét về các vấn đề đó, với mong muốn rằng có thể cố gắng đề xuất một số giải pháp, từ quan điểm của một nhà làm phim. Là một người từng làm kiến trúc, người viết muốn mô tả ngành công nghiệp điện ảnh như một công trình kiến trúc, mà ở đó mỗi thành viên là một thành phần kết cấu cơ bản. Dù thiếu bất kỳ thành phần nào cũng sẽ không thể có một ngôi nhà, không thể có một chốn nương thân chung.

KHÁN GIẢ: NỀN MÓNG CỦA CHÚNG TA

Không có nền công nghiệp nào có thể tồn tại được mà không có một thị trường cho nó. Từ đầu những năm 2000, nhiều con người từ nhiều bên liên quan đã cùng nhau nỗ lực để xây dựng lại một thị trường cho phim Việt từ một nền tảng cơ sở hạ tầng gần như bằng không. Mười lăm năm trước, đến rạp xem phim còn không nằm trong thói quen của người Việt Nam. Ngày nay, chuyện hàng ngàn thanh niên tụ họp tại những cụm rạp như CGV hay Galaxy vào các cuối tuần là một chuyện hết sức bình thường. Đi cùng với đà tăng trưởng kinh tế, ngày càng có nhiều người chọn rạp chiếu phim làm nơi giải trí. Với thực tế là có cực kỳ ít nhu cầu cho nội dung Tiếng Việt trên thị trường quốc tế, số phận của các bộ phim Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường nội địa. Vì lẽ đó, tất cả các bên của nền công nghiệp này nằm dưới quyền sinh sát của khán giả trong nước. Các nhà làm phim bỏ hết tâm sức làm ra những bộ phim mà họ tin khán giả sẽ đổ xô đi xem. Các nhà phát hành phải lên chiến lược tiếp thị và truyền thông chiều theo các mối quan tâm của khán giả. Các nhà rạp phải xác lập và điều chỉnh lịch chiếu dựa trên hiểu biết và dữ liệu của họ về thị hiếu của khán giả. Không có gì phải nghi ngờ, khán giả Việt chính là nguồn lực định hình cho nền công nghiệp phim ảnh Việt Nam hôm nay và ngày mai. Nhưng chính xác thì thị hiếu của họ là gì? Đây không phải một câu hỏi dễ trả lời.

Một điều cần phải làm rõ ngay, đó là không có thị hiếu nào là bất biến. Cũng như khán giả ở mọi quốc gia khác, thị hiếu của khán giả Việt liên tục thay đổi, dù với tốc độ chậm rãi. Do đó, các nhà sản xuất dù rất cố gắng, cũng chưa bao giờ xác định được một chiến lược tất thắng cho các bộ phim của mình. Ví dụ như sau thành công lớn của bộ phim Em Là Bà Nội Của Anh (2015), vốn là một phim làm lại (remake) của tác phẩm Hàn Quốc Miss Granny (2014), nhiều người đã cho rằng remake sẽ là mẫu hình ăn tiền mới của ngành điện ảnh Việt Nam. Thực tế lại khá là đáng thất vọng. Không có một bộ phim remake nào có thể lặp lại thành công của Em Là Bà Nội Của Anh. Một số phim còn chịu lỗ lớn bởi khán giả từ chối xem những bộ phim vô hồn được làm vội vàng và tệ hơn, như thể sao chép từ bản gốc bằng máy photocopy. Trong khi đó, một trường hợp thú vị là bộ phim Em Chưa 18 (2017), một dự án ban đầu vốn bị nhiều nhà đầu tư ngó lơ khi nhìn vào dàn diễn viên gồm toàn những gương mặt mới và một kịch bản nguyên gốc giữa cơn sốt remake. Tuy vậy, bộ phim cuối cùng trở thành một cột mốc lịch sử về doanh thu phòng vé ở Việt Nam, lập tức đưa tên tuổi diễn viên Kiều Minh Tuấn lên hàng siêu sao. Ngoài ra, cũng nên kể đến những bộ phim có yếu tố đồng tính. Kể từ sau sự thành công của nhân vật Hội do Thái Hòa thủ vai trong loạt phim Để Mai Tính, nhiều nhà sản xuất tin rằng nội dung về người đồng tính có thể coi là một yếu tố hút khách trên màn ảnh Việt. Nhưng thực chất rất hiếm phim thành công về doanh thu khi chạm đến chủ đề này. Thất bại của những cái tên như Song Lang (2018), Thưa Mẹ Con Đi (2019) hay Ngôi Nhà Bươm Bướm (2019) chứng minh rằng phần đông khán giả thực sự không hề quan tâm đến chủ đề đồng tính như các nhà sản xuất tưởng. Còn lớp khán giả thuộc giới tính thứ ba lại là một thị trường ngách quá hẹp cho một phim điện ảnh được đầu tư trên dưới 10 tỷ trở lên. Những ví dụ trên cho thấy thật tai hại cho các nhà sản xuất nếu họ chắc mẩm quá sớm rằng mình hiểu thị hiếu người xem.

Nhưng cũng không khó để thấy rằng khán giả Việt Nam ưu ái đặc biệt thể loại Hài trong hơn 10 năm trở lại đây. Bảy trong số tám bộ phim thành công nhất mọi thời đại tại Việt Nam là phim hài. Đó là lý do vì sao phim có yếu tố hài luôn chiếm phần lớn số phim ra rạp. Thường thì những phim có sự góp mặt của các danh hài hạng nhất luôn thoải mái tận hưởng thành công. Điểm chung của các phim này là chúng hoàn toàn dựa vào các mảng miếng tung hứng của các ngôi sao để gây cười cho khán giả, trong khi đó bản thân nội dung câu chuyện không được chú trọng cho lắm. Khán giả chọn đi xem phim đơn giản chỉ như một hình thức thay thế để xem các danh hài biểu diễn. Vào dịp nghỉ Tết, vé xem các danh hài diễn trên sân khấu đắt hơn nhiều một chiếc vé xem phim, vì thế ra rạp xem phim đơn thuần là một lựa chọn hợp túi tiền hơn. Các nghệ sĩ ở đẳng cấp siêu danh hài như Hoài Linh trở thành những ngôi sao hái ra tiền nhất trên màn ảnh. Nghệ sĩ Thái Hoà là một trường hợp thú vị bởi anh vốn là một diễn viên chính kịch có trình độ cao. Trớ trêu thay, anh lại chỉ gặt hái thành công trong các vai hài. Những danh hài khác thường yêu cầu ít nhất 1 tỷ đồng cho một vai diễn, bất kể thời lượng vai diễn của họ trên phim. Với kinh phí trung bình của một bộ phim Việt Nam rơi vào khoảng 12 tỷ đồng, cát xê của các ngôi sao thực sự là gánh nặng không nhỏ. Dù vậy, các nhà sản xuất vẫn sẵn sàng mở hầu bao bởi những cái tên này có thể đảm bảo mức độ thành công nhất định của phim.

Nhưng trong bản thân dòng phim Hài cũng có những sự thay đổi rất vi tế nhưng hết sức rõ rệt. Đầu tiên, đó là sự xuất hiện của một ngôi sao hài không còn đảm bảo được doanh thu lớn nữa. Bộ phim gần đây nhất có sự xuất hiện của nghệ sĩ Hoài Linh là Đích Tôn Độc Đắc (2018). Phim chỉ thu được khoảng 20 tỷ đồng trong dịp Tết, thời điểm mà Hoài Linh từng là ông vua phòng vé độc tôn. Thái Hoà cũng nhận thất bại với bộ phim Fan Cuồng (2017). Phim mới nhất của anh là Chàng Vợ Của Em (2018) cũng là một trường hợp thành công nhưng không đạt đủ doanh thu kỳ vọng để lọt vào Câu Lạc Bộ Trăm Tỷ. Một danh hài nổi bật khác là Việt Hương, những phim có chị xuất hiện chưa ghi nhận cú hit trăm tỷ nào bất chấp danh tiếng rất lớn của nghệ sĩ. Thay vào những cái tên gạo cội kể trên, một thế hệ trẻ đã xuất hiện và dần chiếm được cảm tình của khán giả. Các nghệ sĩ hài như Trấn Thành, Trường Giang hay Kiều Minh Tuấn trở thành các thế lực mới về mặt doanh thu phòng vé. Không thể phủ nhận sự xuất hiện của họ đã có đóng góp to lớn vào thành công vang dội của nhiều bộ phim.

Nhưng chuyện chưa phải đã hết. Nếu nhìn kĩ hơn vào các bộ phim của thế hệ danh hài mới này, chúng ta có thể nhận thấy kịch bản phim đã được cải thiện rất nhiều nếu so với thời của nghệ sĩ Hoài Linh. Trong thập kỷ vừa qua, ngành công nghiệp điện ảnh đã và đang chứng kiến sự chuyển dịch xa rời dần dần cái gọi là phim nhảm. Tất cả 8 bộ phim đạt đỉnh doanh thu phòng vé đều là các phim có cấu trúc kịch bản và đường hướng phát triển nhân vật có bài bản. Những phim này đạt được thành công to lớn bởi khán giả vào rạp có thể thưởng thức các câu chuyện, ngay cả khi họ không phải người hâm mộ của các danh hài xuất hiện trong phim. Theo đó, những phim dựa dẫm vào các chiêu gây cười cũ mòn giờ đây không thể nào với tới những thành công như đã từng. Có vẻ khán giả cũng có cảm tình hơn và tưởng thưởng cho những bộ phim có chất lượng tốt ở khía cạnh kịch bản và lối kể chuyện. Điều đó cũng có nghĩa rằng phim hài Việt ngày càng có chất điện ảnh hơn, thay vì chỉ làm nhiệm vụ thế thân cho hài kịch sân khấu. Xu hướng này bắt đầu trở nên rõ ràng hẳn lên từ bộ phim Em Là Bà Nội Của Anh (2015), bộ phim remake được thừa hưởng một kịch bản gốc rất tốt từ điện ảnh Hàn Quốc. Những đỉnh cao phòng vé như Em Chưa 18 (2017), Siêu Sao Siêu Ngố (2018) hay Cua Lại Vợ Bầu (2019) dù còn khuyết điểm, vẫn có thể coi là đã chạm được vào trái tim của khán giả trẻ Việt Nam bởi nhân vật trong phim được xây dựng có chiều sâu hơn, đi cùng với diễn xuất lôi cuốn của các ngôi sao trẻ.

Bên cạnh đó, trường hợp thành công của loạt phim Lật Mặt đã lại đem đến một góc nhìn độc đáo vào xu hướng sản xuất phim, bởi thành công của nó không đến từ các ngôi sao, mà nhờ vào đầu tàu về sáng tạo của nó: Lý Hải. Lý Hải là một ca sĩ rẽ ngang sang nghiệp sản xuất/đạo diễn, người đã bắt đầu sự nghiệp bằng cách tự sản xuất các video ca nhạc của mình. Cho đến giờ, loạt phim quen thuộc của anh đã ra tới bốn phần, với phần thứ năm chuẩn bị chiếu trong năm 2020. Lật Mặt là sự hoà trộn của Hài với khá nhiều các thể loại như Hành Động, Tội Phạm, Kinh Dị... Vốn là một đạo diễn có kinh nghiệm dàn cảnh hành động, Lý Hải chứng minh rằng khả năng của anh còn nhiều hơn thế. Các phim của anh có cốt truyện dí dỏm, có tính giải trí cao nhưng cũng rất cảm động. Các cảnh quay trong phim anh cũng được dàn dựng sắc sảo với một phong cách đạo diễn dường như chịu ảnh hưởng bởi nhà làm phim Hồng Kông Châu Tinh Trì, người vô cùng được mến mộ ở Việt Nam. Tất cả những yếu tố trên khiến phim Lý Hải dễ dàng được yêu thích bởi khán giả Việt. Tuy thế, những bộ phim thuần túy giải trí, nhưng được làm đến nơi đến chốn như Lật Mặt vẫn hiếm hoi. Phần lớn phim mang tính giải trí của Việt Nam vẫn có kịch bản tồi. Hầu hết những phim loại này đều lặng lẽ biến mất khỏi rạp chiếu sau một hoặc hai tuần vì khán giả không thể giải trí nổi với chúng.

Mặc dù Hài là thể loại thống trị phim Việt, nhưng tình hình lại khác hẳn khi chúng ta đưa các phim ngoại chiếu tại Việt Nam vào để xem xét. Biểu đồ ở Hình 4 cho thấy thể loại Hài chỉ thành công thứ 3 trong các thể loại phổ biến và chỉ đóng góp 15.24% tổng doanh thu phòng vé. Nhờ các phim bom tấn Hollywood mà Hành Động và Giả Tưởng trở thành những thể loại thực sự được ưa chuộng nhất ở thị trường Việt Nam. Vấn đề gặp phải với các thể loại này là chúng đòi hỏi kinh phí cao. Khi thử sức với các thể loại này, nếu các nhà sản xuất Việt Nam không thể thoả mãn được khán giả với chất lượng sản xuất, với cách dàn dựng các pha hành động và kỹ xảo vi tính, khán giả sẽ không buồn để mắt. Nhưng vào tháng hai năm 2019 mới đây, một phim hành động kinh phí cao, Hai Phượng, đã trở thành phim Việt Nam thành công nhất cho đến thời điểm này. Sản xuất và nữ chính của phim, Ngô Thanh Vân, người kiên quyết đương đầu với mọi rủi ro để chiến đấu cho dự án này, cuối cùng đã được tưởng thưởng xứng đáng. Bộ phim võ thuật gay cấn này đã đạt được khoảng 150 tỷ tại phòng chiếu. Tuy không bằng được 190 tỷ của Cua Lại Vợ Bầu, phim lại được trình chiếu tại một số rạp ở Hoa Kỳ và đặc biệt là một thỏa thuận có giá trị lớn với Netflix. Dù tổng doanh thu của phim không được tiết lộ, nhưng con số này được tin là không thấp hơn 10 triệu USD. Thành công chưa từng có này chứng minh một điều rằng khán giả Việt Nam luôn sẵn sàng ủng hộ những phim Việt được đầu tư kỹ lưỡng.

Nhưng chỉ đầu tư vào chất lượng sản xuất chưa phải là tất cả. Vào năm 2017, Victor Vũ, đạo diễn nổi tiếng nhất ở Việt Nam hiện nay, đã cho ra mắt một phim hành động có tựa đề Lôi Báo. Với kinh phí lớn và có sự góp sức của một biên đạo hành động từ Hoa Kỳ, Vincent Wang, bộ phim có được nhiều trường đoạn hành động rất mãn nhãn. Vì tò mò, khán giả kéo đến rạp trong vài ngày đầu. Nhưng khi sức nóng ban đầu nguội dần, chất lượng câu chuyện của Lôi Báo lại không đủ để tạo hiệu ứng truyền miệng tích cực. Kịch bản đầy những lỗ hổng thiếu logic và quan trọng nhất là, khán giả đã không chịu đựng nổi những nhân vật được xây dựng quá hời hợt. Cuối cùng, phim bị rút khỏi rạp khi còn chưa đủ hoà vốn. Ngược lại, kịch bản của Hai Phượng được xử lý khá thông minh. Dù vẫn còn vài trúc trắc, đường dây câu chuyện giản dị dễ hiểu và được kể rành mạch. Nữ chính được xây dựng khiến người xem thấy đáng tin và bản thân Ngô Thanh Vân cũng có một màn trình diễn đầy ấn tượng. Khán giả hoàn toàn yêu thích nhân vật này và dễ dàng bị cuốn theo hành trình Hai Phượng tìm lại con gái từ bọn buôn người. Hơn cả những trường đoạn chiến đấu xuất sắc, chính câu chuyện và nhân vật chính mới đem lại thành công cho bom tấn này. Từ trường hợp Hai Phượng nhìn lại sự nghiệp của đạo diễn Victor Vũ, ta thấy thành công của anh với thể loại phim Giật Gân cũng từng được xây dựng trên nền tảng những câu chuyện bí ẩn được đầu tư nghiêm túc ngay từ giai đoạn viết kịch bản. Như vậy, cái mà khán giả từ chối xem không phải là các thể loại, mà là những kịch bản phim yếu kém.

Cuối năm 2019, một bộ phim gia đình có yếu tố hài là Anh Trai Yêu Quái được kỳ vọng trở thành một cú hit bởi một nội dung có thể khiến khán giả khóc vì cảm động và cười ngặt nghẽo vì diễn xuất xuất sắc của Kiều Minh Tuấn. Tiếc thay, những gì thu được chỉ là một doanh thu sấp xỉ 40 tỷ khá nhạt nhòa. Hay một trường hợp phim hài lãng mạn khác là phim Vu Quy Đại Náo, phim được đánh giá tốt về chuyên môn nhưng đã hoàn toàn lép vế khi ra mắt cùng lúc với Hai Phượng. Hai phim này không lỗ vốn, nhưng kết quả kinh doanh lại kém hơn rất nhiều so với dự đoán ban đầu của những người đã nhiều năm theo dõi thị trường điện ảnh. Nếu đi sâu vào phân tích cụ thể thì có rất nhiều lý do để giải thích cho các trường hợp này, nhưng nhìn chung làm ra một phim Hài tốt có lẽ là chưa đủ khi khán giả đã bắt đầu kỳ vọng một cái gì đó đột phá hơn ở phim Việt Nam. Mặt khác, cùng có con số doanh thu trung bình khá ở khoảng 40-50 tỷ, các phim có yếu tố kinh dị như Thất Sơn Tâm Linh, Bắc Kim Thang, Pháp Sư Mù, lại cho thấy một góc nhìn khác. Phần lớn doanh thu của ba bộ phim này đến từ cuối tuần đầu tiên sau khi được công chiếu, cho thấy sự quan tâm rất lớn của khán giả đối với thể loại phim này. Chỉ đáng tiếc là chất lượng nội dung của chúng không đủ tốt để duy trì đà tăng doanh thu bằng cách tạo ra hiệu ứng truyền miệng tích cực. Tạo được sự chú ý sau khi tung trailer, bộ phim Giật Gân cuối cùng của năm 2019, Chị Chị Em Em, cũng nhanh chóng thu được 50 tỷ chỉ sau 1 tuần công chiếu chính thức. Những kết quả như thế chắc chắn sẽ dọn đường cho thêm nhiều phim thuộc thể loại này ra rạp vào năm tới.

Giờ đây, có thể khẳng định hiện tượng của một thể loại Hài thống trị cả nền điện ảnh chỉ còn là kết quả của một thói quen đang dần lỗi thời, thể hiện một sức ì trong tư duy của các đơn vị sản xuất phim. Kể từ thời điểm này, sự phong phú về thể loại nên được coi là yếu tố chính yếu cho bước phát triển tiếp theo của nền công nghiệp điện ảnh Việt Nam. Không có gì phải nghi ngờ rằng khán giả Việt vẫn chào đón phim ở mọi thể loại chừng nào chúng được đầu tư tử tế về nội dung, nhưng họ đã phải chờ quá lâu cho những bộ phim như thế. Các nhà biên kịch của các thể loại khác phim hài không phải nhóm duy nhất được hưởng lợi. Làm phim với nhiều thể loại sẽ tạo động lực phát triển con người cho các mảng chuyên môn đặc thù như biên đạo hành động, đóng thế, kỹ xảo đồ họa, hiệu quả đặc biệt, hoá trang đặc biệt, vv… Những công việc này chẳng mấy khi có cơ hội được dùng đến với phim hài, và nhân lực trong nghề hiển nhiên là khó có thể đủ sống chỉ với việc thi thoảng tham gia vào một phim hiếm hoi nào đó ở thể loại khác. Chính vì thiếu cơ hội thực hành như vậy, nên khi so sánh với các nước trong khu vực, các mảng chuyên môn này của Việt Nam còn khá yếu. Chỉ khi có nhiều cơ hội làm việc hơn, các chuyên viên của chúng ta mới được tập trung làm nghề, và do đó gia tăng năng lực chuyên môn. Đương nhiên, để biến tương lai này thành hiện thực, những người có quyền quyết định là các nhà sản xuất phải là những người đầu tiên dám dũng cảm làm một điều gì đó nằm ngoài tư duy an toàn thường thấy.

Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong vấn đề này. Nếu không bị cấm chiếu, hẳn Bụi Đời Chợ Lớn (2015), một phim Hành Động có chủ đề băng nhóm vốn rất được trông chờ cũng có khả năng trở thành một cú hit lớn. Trường hợp đau đớn này đã trở thành một bước lùi nghiêm trọng cho ngành điện ảnh, khi sau đó không ai dám sản xuất một phim hành động kinh phí lớn trong vài năm liền. Kinh dị là một thể loại được khán giả yêu thích, nhưng chỉ có vài phim kinh dị Việt ra rạp trong những năm gần đây. Các nhà sản xuất do dự khi thử thách với thể loại này bởi những rủi ro có thể đến từ khâu kiểm duyệt của Nhà nước. Thất Sơn Tâm Linh, một bộ phim kinh dị/giật gân được dựa trên câu chuyện về kẻ giết người hàng loạt đầu tiên được biết đến ở Việt Nam, đã phải lùi ngày ra rạp tới cả nửa năm, thay vì đến với khán giả vào tháng 4 năm 2019. Nguyên do là các nhà làm phim phải hoàn thành yêu cầu của Cục Điện Ảnh về việc thay đổi một số cảnh quay quá máu me ghê rợn đối với quan điểm của Hội Đồng Kiểm Duyệt. Bạo lực, máu me cũng là những lí do đằng sau lệnh cấm chiếu của Bụi Đời Chợ Lớn. Vấn đề ở chỗ, không có một tiêu chuẩn rõ ràng nào về mức độ của cái gọi là “bạo lực” trong một bộ phim, vì Nhà nước không ban hành bất cứ một bộ quy định cụ thể nào. Vai trò của Cục Điện Ảnh sẽ được nói đến nhiều hơn ở phần sau của báo cáo, nhưng có một điều chắc chắn, rằng cơ quan quản lý nhà nước nên để những người làm phim được khám phá nhiều đề tài khác nhau, và khuyến khích thử sức trong những thể loại khác nhau bằng cách loại bỏ dần dần những rào cản hành chính được nhắc đến ở trên.

Ngày nay, giới trẻ Việt không xa lạ gì với phim ảnh nước ngoài, đặc biệt là các bộ phim Hollywood. Cùng với thời gian, nhận thức chung của họ về điện ảnh chắc chắn sẽ dần trở nên tinh tế hơn, cho dù hiện tại nó vẫn còn sơ khai. Vào tháng 7 năm 2019, bộ phim Ký Sinh Trùng của đạo diễn Bong Jun Ho đã thu về 50 tỷ sau 2 tuần, trở thành bộ phim điện ảnh Hàn Quốc thành công nhất tại Việt Nam. Khi một bộ phim đoạt Cành Cọ Vàng được chào đón bởi khán giả Việt Nam, rõ ràng là họ có thể và muốn được trải nghiệm những hình thái giải trí cao như vậy. Họ cần phải được tiếp cận nhiều hơn với những bộ phim ở đẳng cấp như Ký Sinh Trùng. Một số tổ chức văn hoá nước ngoài và đại sứ quán vẫn tổ chức các tuần phim hàng năm ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Liên hoan Phim Quốc tế Hà Nội được tổ chức hai năm một lần cũng dần chiếm được sự quan tâm của khán giả địa phương. Nhưng những sự kiện như vậy nên được tổ chức thường xuyên và mở rộng hơn ra các tỉnh thành khác. Ngay một thành phố lớn như Đà Nẵng cũng hiếm khi có các sự kiện phim ảnh mặc dù đây là địa điểm hoàn hảo để tổ chức các liên hoan. Một liên hoan phim quốc tế dành để tôn vinh dòng phim cổ trang tại cố đô Huế chẳng hạn, có thể trở thành một sự kiến độc đáo và thú vị ngay cả trên bình diện quốc tế.

Nhưng trên tất cả, cần phải có nhiều hơn những bộ phim Việt chất lượng. Điều này sẽ có lợi cho cả người làm phim và khán giả xem phim. Hiện giờ, nhiệm vụ chính của các nhà làm phim nên là từng bước tạo niềm tin nơi khán giả, khiến họ thay đổi thái độ với phim Việt bằng cách làm những bộ phim Việt tốt hơn. Ngoài việc đầu tư cho các ngôi sao sáng giá, các nhà sản xuất rất nên đầu tư thêm thời gian và tiền bạc cho kịch bản, yếu tố mà buồn thay, vẫn chưa được họ quan tâm đúng mức. Lúc này đây chính là thời điểm để các nhà làm phim Việt Nam tập trung hơn vào kịch bản phim nếu họ muốn đạt được những thành tựu mới trong tương lai. Nếu các nhà làm phim cứ tiếp tục làm mà không đếm xỉa đến việc sáng tạo ra các câu chuyện tốt, khán giả sẽ giữ mãi ấn tượng về điện ảnh Việt như là một dòng điện ảnh yếu kém. Dần dần, họ sẽ từ chối bỏ tiền mua vé xem phim Việt. Hơn nữa, không có cách nào tốt hơn để khán giả quen với nghệ thuật điện ảnh bằng thứ điện ảnh nói bằng ngôn ngữ của chính họ. Lớp khán giả mới này sẽ dần trở thành nền móng vững chắc cho một nền công nghiệp phim ảnh bền vững hơn trong những năm sắp tới.

Kỳ tiếp theo: Các Nhà Sản Xuất: Hệ Cột Chịu Lực Của Chúng Ta

Sinh năm 1984, Nguyễn Hữu Tuấn hiện là Hội viên Hội Điện Ảnh Việt Nam. Dù đến với điện ảnh khá muộn, anh là đạo diễn 8x đầu tiên đã công chiếu phim điện ảnh đầu tay mang tựa đề Dành Cho Tháng Sáu vào năm 2012. Bộ phim độc lập này sau đó đã nhận được Giải thưởng Ban giám khảo tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ XVIII (2013). Tháng 12/2018, bộ phim thứ hai của anh mang tên Mặt Trời, Con Ở Đâu đã được công chiếu trên cả nước. Trong năm 2019, anh vinh dự được tham gia học tập và nghiên cứu tại Busan Asian Film School, thành phố Busan, Hàn Quốc.
BUSAN ASIAN FILM SCHOOL (AFiS) - http://www.afis.ac/
Trường Điện Ảnh Châu Á Busan là một trường điện ảnh đặc biệt chuyên về sản xuất phim, đặt mục tiêu phát triển một thế hệ các nhà sản xuất tiếp theo cho Châu Á. Hàng năm, AFiS lựa chọn 20 nhà sản xuất từ các quốc gia trong châu lục để nâng cao kiến thức cho họ về các hoạt động sản xuất và kinh doanh phim trên thị trường quốc tế. AFiS mong muốn là nơi giúp cho các nhà sản xuất phim Châu Á được trang bị các công cụ hữu ích nhất để hòa nhập vào ngành công nghiệp điện ảnh toàn cầu, và làm cái nôi cho sự hợp tác giữa các nền điện ảnh châu lục trong tương lai.