Phim của Hầu Hiếu Hiền - Tối giản và chân thực

Góc Nghệ Thuật · Maii ·

Hầu Hiếu Hiền – cái tên không quá quen thuộc với khán giả trẻ, nhưng là một trong 50 đạo diễn tầm cỡ của điện ảnh Hoa ngữ.

Hầu Hiếu Hiền – cái tên không quá quen thuộc với khán giả trẻ, nhưng là một trong 50 đạo diễn tầm cỡ của điện ảnh Hoa ngữ. Nổi tiếng từ những năm thập niên 80-90 đến nay, ông là người đi đầu trong phong trào điện ảnh đổi mới của Đài Loan. Vừa đạo diễn, vừa biên kịch và cả tự sản xuất, ông có phong cách làm phim nghệ thuật được giới chuyên môn đánh giá cao.

Sinh ra ở Trung Quốc nhưng lớn lên và làm việc ở Đài Loan, Hầu Hiếu Hiền tốt nghiệp Học viện Nghệ thuật Quốc gia Đài Loan và khởi nghiệp năm 1973, trong vai trò trợ lý và biên kịch cho vị đạo diễn nổi tiếng lúc bấy giờ là Lý Hành. Năm 1983, ông cùng với 2 đạo diễn khác là Vạn Nhân Cân và Tăng Tráng Cường cho ra đời Nhi Tử Đích Đại Đoạn Ngẫu – tác phẩm đánh dấu trào lưu điện ảnh mới ở Đài Loan.

Thời hoàng kim của Hầu Hiếu Hiền nằm sau những năm 70, khi những phim phong lưu, tình ái phản ánh xã hội cũ vẫn còn nhiều, và nằm trước những năm 90, khi phim võ thuật kiếm hiệp dày đặc màn ảnh. Những năm 80 là khi người ta theo chân Hầu Hiếu Hiền, bắt đầu làn sóng làm phim phản ánh hiện thực xã hội thời điểm đó, với tiếng cười nằm giữa ranh giới dí dỏm và mỉa mai. Tuy nhiên, bước sang thời kỳ đổi mới cũng là lúc phim nghệ thuật dần dần nhường chỗ cho phim thương mại.

Bản thân Hầu Hiếu Hiền cũng đã có lúc nghĩ rằng, điện ảnh chỉ là một trong số nhiều con đường để kiếm tiền. Nhưng rồi một ngày ông nhận ra trách nhiệm của một nhà làm phim chân chính và dừng việc chạy theo đồng tiền mà làm hỏng một tác phẩm nghệ thuật.  

Trong suốt sự nghiệp của mình, Hầu Hiếu Hiền sở hữu nhiều phim hay, 3 kiệt tác phải kể đến là Bi Tình Thành Thị, Hỉ Mộng Nhân Sinh, Hảo Nam Hảo Nữ. Trong đó, Bi Tình Thành Thị được trao giải Sư Tử Vàng tại liên hoan phim Venezia và cũng là phim đứng nhất trong số 10 phim vĩ đại nhất điện ảnh Hoa ngữ (phim Đồng Niên Vãn SựLuyến Quyến Phong Trần của ông cũng năm trong top 10). Đây là 3 phim tâm lý, xoay quanh số phận và suy nghĩ của những người Đài Loan, Trung Quốc trong thời kỳ lịch sử đang có những biến động mạnh ở cuối thế kỷ 20. Hải Thượng Hoa, Thiên Hi Mạn Ba, Café Lumière, Tối Hảo Đích Thì Quang, Ni La Hà Nữ Nhi… là nhiều phim được đánh giá cao của Hầu Hiếu Hiền.

3 yếu tố trong nhiều đặc điểm làm nên phong cách phim của Hầu Hiếu Hiền là nữ giới, chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tối giản.

Đương nhiên, phim của ông vẫn có những phim xoay quanh một nhân vật nam như Bi Tình Thành Thị với sự tham gia của tài tử Lương Triều Vĩ, nhưng kể từ sau bộ phim Thiên Hi Mạn Ba, Hầu Hiếu Hiền bộc bạch ông cảm thấy nữ giới diễn xuất trực quan và chăm chú trong cảm xúc hơn nam giới. Người ta gọi ông là nhà làm phim nữ quyền, nhưng có lẽ đơn giản, các nhân vật nữ phù hợp với phong cách làm phim tinh tế của ông hơn. Phim của Hầu Hiếu Hiền luôn truyền tải thông điệp về nhân sinh, cho dù đó là câu chuyện xoay quanh nam chính hay nữ chính, chứ không cố gượng ép kêu gọi bình quyền nam nữ.

Phim của Hầu Hiếu Hiền đi theo chủ nghĩa tối giản, đặt sinh mệnh con người vào vị trí trung tâm, xoay quanh những vấn đề như tiền bạc (Nam Quốc Tái Kiến, Nam Quốc), định kiến xã hội (Hải Thượng Hoa), sống – chết (Bi Tình Thành Thị), sự đổi thay của thời đại (Đồng Niên Vãn Sự)… mong muốn người xem tự chiêm nghiệm và rút ra bài học cho riêng mình trong hành trình tìm về “số 0” của bản ngã, trân trọng những gì mình đang có để biết ơn, yêu thương, giải phóng tâm hồn khỏi trói buộc, xiềng xích được tạo nên bởi suy nghĩ của những người xa lạ ngoài xã hội và sống thật tự do. Chủ nghĩa tối giản khuyên con người nên sống vì hạnh phúc của bản thân thay vì chạy theo đồng tiền, mãi mãi chìm trong đau khổ.

Làm phim theo phong cách hiện thực nên khi quay phim, đặc biệt là trong các phim hiện đại, ông thường không chuẩn bị gì cả, việc chọn bối cảnh của ông hoàn toàn tự nhiên, bước đến đâu, thấy ưng thì chọn điểm đó, hoàn toàn không có sự chuẩn bị trước. Bối cảnh thật không phải thay đổi gì, đoàn làm phim chỉ cần đến và quay. Còn lại mọi thứ khác đều được giữ nguyên, nếu không hài lòng thì quay lại lần nữa.

Đối với ông, địa điểm và nhân vật, không cái nào quan trọng hơn cái nào, mà cả hai phải kết hợp sao cho hài hòa, cho tự nhiên và không trái logic. Như thế thì mới làm nổi bật lên sự tồn tại của nhân vật, làm cho nhân vật thực sự “sống” trong mắt khán giả. Từng chuyển động nhỏ như luồng gió, ánh sáng, sự lay động của mọi sinh vật khác trong cảnh quay đều không có sự can thiệp máy móc, của bàn tay con người.

Đối với phim trái bối cảnh hay thời gian như phim cổ trang, võ hiệp (Nhiếp Ẩn Nương), ông nghiên cứu kỹ về lịch sử, tôn giáo, chính trị thời bấy giờ để thể hiện trên phim sao cho tinh tế và chất lượng, chứ không phải dạng xa hoa phù phiếm. Đối với ông, điện ảnh là cái gương phản ánh, soi chiếu bản thân con người trong xã hội, vì thế nên nó càng phải chân thực càng tốt. Đặc điểm này một lần nữa thể hiện chủ nghĩa tối giản trong phong cách làm phim của Hầu Hiếu Hiền. Ông thường sử dụng những góc quay rộng, phân cảnh dài, hình ảnh nhân vật hiện lên và trở thành một phần trong khung cảnh đó.

Việc đưa kịch bản cho diễn viên cũng vậy, diễn sao là theo cảm nhận của diễn viên, tự họ bước vào thế giới trong phim và sử dụng cảm xúc thật của mình để thể hiện vai diễn. Bởi thế khâu chọn diễn viên của Hầu Hiếu Hiền cũng rất quan trọng, chứng tỏ được cái tài trong việc nhìn người của ông. Ông để diễn viên tự đánh giá màn thể hiện của bản thân trong từng phân cảnh, nếu cần thì quay lại, chứ không ép buộc họ phải đi theo hướng mà mình mong muốn.

Phim của Hầu Hiếu Hiền có lẽ không dễ nuốt đối với phần đông đại chúng, nhưng ngẫm lại thì có mấy phim nghệ thuật nào dễ nuốt đối với đại chúng đâu. Tuy vậy, những thông điệp và giá trị của mỗi tác phẩm ông sở hữu đều không thể thay thế. Phong cách của ông là tấm gương đáng để các vị đạo diễn sau này noi theo, trong thời đại mà phim thương mại tràn ngập khắp nơi, những phim người ta có thể xem trong 2 tiếng, nhưng cuối cùng vẫn không đọng lại được gì, không thay đổi được gì tích cực trong nhân sinh quan.